Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là gì? Các công bố khoa học về Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD exacerbation) là giai đoạn bùng phát của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). COPD là một bệnh phổi mạn tính tiến tri...

Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD exacerbation) là giai đoạn bùng phát của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). COPD là một bệnh phổi mạn tính tiến triển dần, gây tổn thương cho các đường thở và gây ra triệu chứng như khó thở, ho, và sự suy giảm lưu lượng không khí vào ra phổi.

Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính thường xảy ra khi có sự gia tăng đột ngột của triệu chứng COPD như khó thở nặng hơn, ho kém điều khiển, sự sụt giảm của khí tức và thậm chí có thể dẫn đến việc ngừng hô hấp. Các nguyên nhân gây ra đợt cấp bao gồm: nhiễm trùng đường hô hấp trên, vi khuẩn hoặc virus, tác động của ô nhiễm, hút thuốc lá, và chuyển đổi thời tiết.

Việc quản lý đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính bao gồm việc điều trị nhiễm trùng, đảm bảo điều kiện thở tốt (sử dụng máy tạo oxy nếu cần thiết), sử dụng thuốc giãn phế quản để giúp mở rộng đường thở, sử dụng thuốc kháng viêm hoặc thuốc ho để giảm triệu chứng ho, và quản lý mức độ căng thẳng và mệt mỏi.
Trong đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, bệnh nhân có thể gặp những triệu chứng nghiêm trọng hơn và có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống. Những triệu chứng thường gặp trong đợt cấp bao gồm:

1. Khó thở: Bệnh nhân có thể cảm thấy khó thở nặng hơn so với thời kỳ ổn định của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Họ có thể cảm thấy khó thở ngay cả khi nghỉ ngơi hoặc khi thực hiện hoạt động nhẹ.

2. Ho: Ho là một triệu chứng phổ biến trong COPD và có thể trở nên tăng hơn trong đợt cấp. Ho có thể đi kèm với đờm, đặc biệt là trong trường hợp nhiễm trùng hô hấp.

3. Đau ngực: Bệnh nhân có thể có cảm giác đau, ép ngực trong đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Đau ngực thường xuất phát từ sự căng thẳng và việc mất oxy trong máu do khí tức giảm.

4. Sụt giảm khí tức: Máu thiếu oxi là một vấn đề phổ biến trong đợt cấp COPD. Bệnh nhân thường có dấu hiệu mệt mỏi, khó tập trung, lúc không còn thông nổi khí qua các bộ phận.

5. Tăng tần suất và nặng tình trạng mắc bệnh: Trong đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, có thể thấy rõ sự gia tăng trong tần suất và nặng hơn của các triệu chứng như khó thở, ho và mức độ mắc bệnh.

Trong việc quản lý đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, bác sĩ có thể đưa ra các biện pháp điều trị như sau:

1. Sử dụng thuốc giãn phế quản: Thuốc giãn phế quản như bronchodilators có thể được sử dụng để mở rộng đường thở và cải thiện khả năng hô hấp.

2. Sử dụng thuốc kháng viêm: Thuốc kháng viêm như corticosteroids có thể giúp giảm viêm và sưng phế quản, từ đó cải thiện triệu chứng của bệnh.

3. Điều trị nhiễm trùng đường hô hấp: Nếu đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính do nhiễm trùng, bác sĩ có thể kê đơn kháng sinh để điều trị nhiễm trùng và giảm triệu chứng viêm nhiễm.

4. Hỗ trợ hô hấp: Bệnh nhân có thể được hỗ trợ bằng cách sử dụng oxy hoá hoc, máy tạo oxy, máy hút đờm và máy thở máy (ventilator) nếu cần thiết.

5. Điều chỉnh hoạt động hàng ngày: Bệnh nhân có thể cần điều chỉnh hoạt động hàng ngày để giảm căng thẳng và hạn chế tác động tiêu cực đến phổi.

Việc giảm nguy cơ tái phát đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính bao gồm ngừng hút thuốc lá và tránh tiếp xúc với các tác nhân gây kích thích phế quản như hóa chất, ô nhiễm không khí và khói. Bệnh nhân cũng nên tuân thủ điều trị bằng thuốc và tham gia các chương trình giảm căng thẳng, rèn luyện thể lực và thực hiện chế độ ăn uống lành mạnh.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính":

3. Nồng độ Procalcitonin và C-Reactive Protein huyết tương ở đợt cấp bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nhiễm khuẩn
Nghiên cứu sự biến đổi nồng độ PCT, CRP huyết tương trong đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (AECOPD) ở 200 bệnh nhân mới nhập viện: 123 bệnh nhân đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nhiễm khuẩn (nhóm bệnh), 77 bệnh nhân đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính không có nhiễm khuẩn (nhóm chứng) tại Bệnh viện Phổi Trung ương từ tháng 7/2021 đến tháng 6/2022. Kết quả: căn nguyên vi sinh ở nhóm AECOPD nhiễm khuẩn nhiều nhất là vi khuẩn A. baumannii (27,66%), K. pneumonia (13,83%), P. aeruginosa (12,76%). Nhóm bệnh có nồng độ PCT, CRP huyết tương cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 7,30 ± 23,54 ng/ml; 76,70 ± 57,06 mg/l so với 0,07 ± 0,12 ng/ml; 10,05 ± 10,85 mg/l với p < 0,01; p < 0,001. Nồng độ CRP và PCT huyết tương tương quan thuận với SLBC với hệ số r = 0,502; 0,396 với p < 0,001.
#PCT #CRP #đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nhiễm khuẩn
ĐẶC ĐIỂM VI KHUẨN GÂY ĐỢT CẤP BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH KIÊN GIANG NĂM 2020
Tạp chí Y Dược học Cần Thơ - Số 43 - Trang 81-88 - 2021
  Đặt vấn đề: Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính dễ dẫn đến nhập viện và tử vong, nguyên nhân do nhiễm trùng 70-80%. Việc đánh giá vi sinh giúp lựa chọn đúng kháng sinh trong điều tri bệnh là rất quan trọng và có ý nghĩa lâm sàng. Mục tiêu nghiên cứu: 1. Mô tả đặc điểm tác nhân vi khuẩn gây đợt cấp trên bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Kiên Giang năm 2020. 2. Khảo sát một số yếu tố liên quan đến nhiễm một số chủng vi khuẩn gây bệnh phổ biến. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 400 hồ sơ bệnh án của bệnh nhân mắc đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nhập viện điều trị tại khoa Nội hô hấp Bệnh viện Đa khoa tỉnh Kiên Giang năm 2020. Số liệu được phân tích bằng phần mềm SPSS. Kết quả: Vi khuẩn gram âm 79,71%. Vi khuẩn thường gặp là Klebsiella ssp. (27,54%) kháng cao với cephalosporin; chủng Pseudomonas ssp. (20,29%) kháng cao với gentamycin và nhóm carbapenem; Acinetobacter baumannii (17,39%) kháng với ciprofloxacin và nhóm cephalosporin. Vi khuẩn gram dương có Streptococcus pneumonia (11,59%) kháng cao với nhóm betalactam.Một số yếu tố liên quan đến nguy cơ nhiễm khuẩn là bệnh nhân không hút thuốc sẽ giảm nguy cơ nhiễm chủng Klebsiella spp. (OR =0,02, p = 0,016 ). Nguy cơ nhiễm chủng Pseudomonas spp. giảm khi không mắc kèm bệnh tăng huyết áp (OR = 0,067, p = 0,040), đái tháo đường týp 2 (OR = 0,11, p = 0,011), bệnh lao phổi cũ (OR = 0,11, p = 0,003). Kết luận: Nhiễm khuẩn trong đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, vi khuẩn gram âm chiếm đa số. Vi khuẩn thường gặp là Klebsiella ssp., Pseudomonas ssp.,  Streptococcus ssp., Acinetobacter baumannii. Một số yếu tố liên quan đến nguy cơ nhiễm khuẩn như  hút thuốc, mắc kèm bệnh lao phổi cũ, tăng huyết áp, đái tháo đường týp 2.
#Đợt cấp COPD #bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính #vi khuẩn
Tỷ lệ tái nhập viện vì đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và một số yếu tố liên quan
Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là biến cố quan trọng trong tiến trình của bệnh. Nghiên cứu tiến cứu trên 122 bệnh nhân nhập viện vì đợt cấp tại Trung tâm Hô hấp, Bệnh viện Bạch Mai trong thời gian từ tháng 01/2018 đến tháng 08/2019 nhằm xác định tỷ lệ tái nhập viện vì đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính trong 12 tháng và một số yếu tố liên quan. Sau khi điều trị đợt cấp ổn định, bệnh nhân được đánh giá về các đặc điểm lâm sàng và một số chỉ số cận lâm sàng, sau đó theo dõi trong 12 tháng. Kết quả 113 bệnh nhân được theo dõi với 142 lần tái nhập viện, số lần tái nhập viện trung bình là 1,3; tỷ lệ bệnh nhân tái nhập viện vì đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính trong 12 tháng theo dõi là 54,9%. Tiền sử nhập viện vì đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính trong năm trước, chỉ số khối cơ thể - BMI < 20, điểm đánh giá ảnh hưởng của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (CAT - COPD Assessment Test) > 10 và tỷ lệ bạch cầu ái toan máu ngoại vi ≥ 2% đều có liên quan đến tái nhập viện vì đợt cấp với p < 0,05. Yếu tố có giá trị tiên lượng độc lập với tái nhập viện vì đợt cấp là BMI < 20 (OR = 0,419; 95%CI: 0,174 - 1,008; p = 0,05) và tiền sử đợt cấp nhập viện trước đó (OR = 0,38; 95%CI: 0,16 - 0,903; p = 0,029).
#bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính #nhập viện vì đợt cấp #tái nhập viện #yếu tố nguy cơ
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của người bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính sau đợt cấp tại Trung tâm hô hấp Bệnh viện Bạch Mai năm 2018
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 2 - Trang 101-106 - 2020
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của người bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính sau đợt cấp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 122 người bệnh có đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính được điều trị tại Trung tâm Hô hấp bệnh viện Bạch Mai năm 2018, trong đó có 114 nam và 8 nữ. Kết quả: Tuổi trung bình của người bệnh tham gia nghiên cứu là 68,8 ± 9,23; Tỷ lệ nam/nữ xấp xỉ 14/1; tỷ lệ người bệnh GOLD D chiếm 86%, còn lại là GOLD C. Sau đợt cấp, hai triệu chứng hay gặp nhất là khạc đờm chiếm và ho lần lượt là 73% và 80,3%. Về thực thể có 50% người bệnh có lồng ngực hình thùng, 31,2% người bệnh có rales ẩm, rales nổ; 76,25% có tăng áp lực động mạch phổi và 50,8% người bệnh có hình ảnh ‘P phế’ trên điện tâm đồ. Kết luận: Sau đợt cấp, người bệnh COPD vẫn tồn tại đáng kể các triệu chứng về hô hấp. Do đó cần có kế hoạch quản lý tại nhà, khám định kỳ người bệnh COPD để ngăn ngừa đợt cấp và nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
#Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính #đợt cấp
CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG CAI MÁY THÀNH CÔNG CỦA PHƯƠNG THỨC THÔNG KHÍ THÍCH ỨNG Ở BỆNH NHÂN ĐỢT CẤP BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Nhận xét các yếu tố tiên lượng cai máy thành công của phương thức thông khí thích ứng (AVM) cho bệnh nhân đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu trên 25 bệnh nhân đợt cấp COPD nhập trung tâm Cấp cứu bệnh viện Bạch Mai thông khí  xâm nhập đủ điều kiện cai thở máy từ tháng 09/2020 đến tháng 9/2021. Các thông số theo dõi chính như tuổi, giới, các chỉ số khí máu: pH, PaCO2, PaO2, HCO3, PaO2/FiO2, lactat các thông số lâm sàng: mạch, huyết áp, nhịp thở, SpO2 được thu thập tại các thời điểm: nhập viện, bắt đầu cai máy thở bằng AVM, sau thở AVM 30 phút, sau 60 phút, sau 120 phút, trước rút ống nội khí quản hoặc trước khi chuyển lại thông khí kiểm soát và sau rút ống nội khí quản. Bệnh nhân được đánh giá thành công khi không phải đặt lại nội khí quản sau 48 giờ. Kết quả: Nghiên cứu trên 25 bệnh nhân (tuổi trung bình 74,04 ± 9,92 tuổi; 8% nữ giới) cho kết quả có 21 (84%) bệnh nhân rút ống nội khí quản thành công. Tại thời điểm nhập viện nhóm thành công có điểm SOFA (4,82±2,1) và điểm APACHE II (16,24±4,44), thấp hơn so với nhóm thất bại có điểm SOFA( 9±1,92), điểm APACHE II (21,2±2,99) với p<0,05. Diễn biến về nhịp tim, nhịp thở, pH, PaCO2, lactat của nhóm thành công ổn định trong quá trình cai thở máy và ở nhóm thất bại nhịp tim, nhịp thở, PaCO2 tăng dần, pH giảm dần từ thời điểm 60 phút sau cai thở máy, khác biệt rõ nhất tại thời điểm trước khi rút nội khí quản hoặc trước khi chuyển lại thông khí kiểm soát với p <0,05. Kết luận: Thang điểm APACHE II, SOFA tại thời điểm nhập viện có khả năng dự báo kết quả rút ống nội khí quản thành công. Theo dõi diễn biến trong quá trình cai máy về nhịp tim, nhịp thở, pH, PaCO2, lactat có thể tiên lượng cai máy thở thành công áp dụng phương thức thông khí thích ứng cho bệnh nhân đợt cấp COPD.
#Thông khí nhân tạo xâm nhập #AVM #đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính #cai thở máy
MÔ HÌNH ACCEPT – HƯỚNG ĐI MỚI TRONG DỰ BÁO ĐỢT CẤP BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1A - 2022
Mục tiêu: đợt cấp BPTNMT gây nhiều tác động xấu đến chức năng hô hấp, chất lượng cuộc sống, gây tiêu tốn lượng lớn chi phí y tế. Năm 2020, Amin và cộng sự xây dựng và đưa ra ACCEPT – acute COPD exacerbation prediction tool – nhằm dự báo tỉ lệ tái phát đợt cấp BPTNMT. Nghiên cứu được thực hiện để xác định giá trị tiên lượng của ACCEPT trên nhóm bệnh nhân điều trị ngoại trú bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại bệnh viện Bạch Mai. Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang ở 221 bệnh nhân theo dõi và điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ngoại trú tại Bệnh viện Bạch Mai. Giá trị dự báo của ACCEPT đối với số đợt cấp ghi nhận trên nhóm bệnh nhân được tính toán, mô tả bằng đường cong ROC và diện tích dưới đường cong ROC (AUC). Kết quả: mẫu nghiên cứu này có tỉ lệ nam – nữ là 94.4% - 5.6%, 87.1% trong đó từng hút thuốc lá – thuốc lào, 58.6% là nông dân và công nhân, 53.7% mRC từ 0-1 đợt cấp 12 tháng trước, 45.3% có điểm CAT từ 11-29 điểm. Áp dụng mô hình ACCEPT, chúng tôi ghi nhận giá trị dự báo với các bệnh nhân có từ 2 đợt cấp trở lên trong thời gian theo dõi có độ nhạy và độ đặc hiệu lần lượt là 80.0% và 86.6% ở mức cut-off bằng 1.47 (AUC = 0.902 (95% CI 0.844-0.960). Kết luận: mô hình ACCEPT có giá trị dự báo đợt cấp trong vòng 12 tháng tới đạt ngưỡng rất tốt đối với nhóm các bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính theo dõi ngoại trú tại Bệnh viện Bạch Mai. Cần có thêm các nghiên cứu kiểm chứng mô hình dự báo đợt cấp này trên các nhóm bệnh nhân khác, cỡ mẫu lớn hơn giúp kiểm chứng giá trị dự báo của ACCEPT.
#Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính #đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính #dự báo #công cụ dự báo
HIỆU QUẢ CỦA KỸ THUẬT KHÍ DUNG SÓNG CAO TẦN TRONG ĐIỀU TRỊ ĐỢT CẤP BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH MỨC ĐỘ TRUNG BÌNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 1 - 2021
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả kỹ thuật khí dung sóng cao tần (IPV) trong điều trị bệnh nhân đợt cấp COPD mức độ trung bình. Phương Pháp: Nghiên cứu tiến cứu can thiệp trên 60 bệnh nhân đợt cấp COPD mức độ trung bình theo tiêu chuẩn Anthonisen 1987, vào viện tại trung tâm Cấp cứu A9 – Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 7 năm 2020 đến tháng 7 năm 2021, các bệnh nhân tham gia nghiên cứu được chia thành hai nhóm, 30 bệnh nhân nhóm chứng và 30 bệnh nhân nhóm can thiệp IPV. Các thông số theo dõi chính như: Tuổi, giới, các chỉ số lâm sàng: mạch, nhịp thở, Sp02 tại các thời điểm nhập viện (T0), sau khí dung 60 phút (T1), 6h (T2), 12h (T3), 24h(T4), 48h(T5), 72h(T6); các chỉ số khí máu: pH, PaCO2, PaO2, HCO3-, theo dõi tại các thời điểm T0, T2, T4, T5 và T6. Bệnh nhân được đánh giá thành công khi không phải thở máy hỗ trợ. Kết quả: Trong 60 bệnh nhân nghiên cứu (tuổi trung bình 69,83±9,90 tuổi; 11,7% nữ giới) cho kết quả: Có 6 (20%) bệnh nhân trong nhóm chứng phải chuyển thở không xâm nhập, trong khí đó ở nhóm can thiệp có 1 (3,3%) bệnh nhân trong nhóm phải chuyển thở không xâm nhập (p < 0,05). Thời gian nằm viện của nhóm chứng là 8,00 ± 2,95 ngày, của nhóm can thiệp là 6,73 ± 2,99 ngày (p=0,105). Có 63,3% bệnh nhân đánh giá IPV ở mức độ dễ chịu (mức độ I), 26,7% bệnh nhân đáng giá ở mức độ khó chịu nhẹ (mức độ II), không có bệnh nhân nào khó chịu tới mức phải dừng khí dung bằng IPV. Kết luận: IPV là một kỹ thuật an toàn  và có thể ngăn chặn tình trạng xấu đi của đợt cấp trong điều trị đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính mức độ trung bình, giảm tỷ lệ bệnh nhân chuyển thở máy không xâm nhập.
#Khí dung sóng cao tần #thông khí nhân tạo không xâm nhập #bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
KẾT QUẢ CAI THỞ MÁY CỦA PHƯƠNG THỨC THÔNG KHÍ THÍCH ỨNG Ở BỆNH NHÂN ĐỢT CẤP BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Nhận xét kết quả cai máy của phương thức thông khí thích ứng (AVM) cho bệnh nhân đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu trên 25 bệnh nhân đợt cấp COPD nhập trung tâm Cấp cứu bệnh viện Bạch Mai thông khí  xâm nhập đủ điều kiện cai thở máy từ tháng 09/2020 đến tháng 8/2021. Các thông số theo dõi chính như tuổi, giới, các chỉ số khí máu: pH, PaCO2, PaO2, HCO3, PaO2/FiO2, lactate các thông số lâm sàng: mạch, huyết áp, nhịp thở, SpO2 được thu thập tại các thời điểm: nhập viện, bắt đầu cai máy thở bằng AVM, sau thở AVM 30 phút, sau 60 phút, sau 120 phút, trước rút ống nội khí quản hoặc trước khi chuyển lại thông khí kiểm soát và sau rút ống nội khí quản. Bệnh nhân được đánh giá thành công khi không phải đặt lại nội khí quản sau 48 giờ. Kết quả: Trong số 25 bệnh nhân nghiên cứu (tuổi trung bình 74,04 ± 9,92 tuổi; 8% nữ giới) cho kết quả có 21 (84%) bệnh nhân rút ống nội khí quản thành công. Ở nhóm cai máy thành công, có thời gian cai thở máy (9,06 ± 4,5 giờ) và thời gian nằm ICU (6,29 ± 2,61 ngày), ngắn hơn nhóm thất bại với thời gian cai thở máy (16,75 ± 5,38 giờ), thời gian nằm ICU (20,75 ± 27,58) với p< 0,05. Kết luận: Phương thức AVM có tỷ lệ rút nội  khí quản thành công cao, giúp rút ngắn thời gian thở máy cũng như nằm ICU trên bệnh nhân đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD).
#Thông khí nhân tạo xâm nhập #AVM #đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính #cai thở máy
YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG THÀNH CÔNG CUẢ PHƯƠNG THỨC AVAPS Ở BỆNH NHÂN ĐỢT CẤP BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH (COPD) ĐƯỢC THÔNG KHÍ NHÂN TẠO KHÔNG XÂM NHẬP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 502 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá yếu tố tiên lượng thành công của bệnh nhân đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) được thông khí nhân tạo không xâm nhập bằng phương thức AVAPS. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu so sánh trước sau can thiệp trên 40 bệnh nhân đợt cấp COPD nhập khoa Cấp cứu bệnh viện Bạch Mai có chỉ định thông khí không xâm nhập từ tháng 05/2019 đến tháng 8/2020. Các thông số theo dõi chính như tuổi, giới, các chỉ số khí máu: pH, PaCO2, PaO2, HCO3, PaO2/FiO2, các thông số thở máy: Vt, Vte, PIP, Leak được thu thập tại các thời điểm: trước thở AVAPS, sau thở AVAPS 3 giờ, sau 6 giờ, sau 12 giờ. Bệnh nhân được đánh giá thành công khi không phải đặt nội khí quản, lâm sàng và khí máu ổn định sau bỏ máy 24 giờ. Kết quả: Nghiên cứu trên 40 bệnh nhân (tuổi trung bình 70,3 ± 9,87 tuổi; 7,5% nữ giới) cho kết quả có 29 (72,5%) bệnh nhân thở máy thành công. Ở nhóm thành công, PaCO2, HCO3, PIP, Leak giảm dần theo thời điểm theo dõi, giảm nhanh nhất từ T0 đến T3-6; Vt, Vte tăng dần (p<0,05); Ở nhóm thất bại PaCO2, PaO2, PIP, Vt, Vte tăng dần theo thời  điểm. PaCO2với điểm cắt ≥88 mmHg (diện tích dưới đường cong ROC, AUC=0,8364), PIP với điểm cắt ≥17cmH2O (AUC=0,8871), Leak với điểm cắt ≥ 29 lít/phút (AUC=0,7884), cho độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự báodương tính và giá trị dự báo âm tính cao. Kết luận: Các thông số như PaCO2, PIP và leak tại thời điểm bắt đầu tiến hành thở AVAPS là những yếu tố tiên lượng thành công khi thông khí nhân tạo không xâm nhập cho bệnh nhân đợt cấp COPD.
#Thông khí nhân tạo không xâm nhập #AVAPS #đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ GÂY ĐỢT CẤP THƯỜNG XUYÊN Ở BỆNH NHÂN CÓ ĐỢT CẤP BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH NHẬP VIỆN TẠI TRUNG TÂM HÔ HẤP, BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Xác định một số yếu tố nguy cơ gây đợt cấp thường xuyên ở bệnh nhân có đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) nhập viện tại khoa Hô hấp, bệnh viện Bạch Mai. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, cắt ngang với 118 bệnh nhân đợt cấp COPD điều trị tại khoa Hô hấp, bệnh viện Bạch Mai – cỡ mẫu tính theo công thức nghiên cứu mô tả. Kết quả: thời gian mắc bệnh >5 năm, điểm CAT ≥10 làm tăng nguy cơ mắc đợt cấp thường xuyên nhập viện gấp 4,9 lần và 4,35 lần so với nhóm còn lại (tương ứng p<0,05 và p<0,01). BPTNMT có bệnh đồng mắc có nguy cơ mắc đợt cấp thường xuyên nhập viện gấp 2 lần so với nhóm có không có bệnh đồng mắc, p <0,05. Không tuân thủ theo đơn điều trị có nguy cơ mắc đợt cấp thường xuyên nhập viện gấp 3,3 lần so với tuân thủ điều trị theo đơn, p <0,05. Sử dụng ICS có nguy cơ mắc đợt cấp thường xuyên nhập viện gấp 3,2 lần so với không sử dụng ICS, p <0,05. Không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng còn hút thuốc và chỉ số FEV1 với đợt cấp thường xuyên nhập viện. Kết luận: thời gian mắc bệnh > 5 năm, điểm CAT ≥10, có bệnh đồng mắc, không tuân thủ điều trị theo đơn, không sử dụng ICS là những yếu tố làm tăng nguy cơ mắc đợt cấp thường xuyên nhập viện của bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
#Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính #COPD #đợt cấp
Tổng số: 34   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4